Đăng kýHỏi và đápThành viênLịchSearchToday |
Giới thiệu các loại mũ bảo hiểm môtô | ![]() |
#1
|
|||
|
|||
![]() Dù thuộc loại nào đi chăng nữa thì nhiệm vụ chính của mũ bảo hiểm môtô vẫn là bảo vệ an toàn cho phần đầu, mặt và tai của người lái, giảm chấn thương sọ não, thông khí đồng thời duy trì hệ thống liên lạc nội bộ. Nguồn gốc ![]() Sỹ quan quân đội Lawrence of Arabia trên chiếc Brough Superior SS100. Sỹ quan quân đội T. E. Lawrence (hay còn gọi là Lawrence of Arabia) lái chiếc Brough Superior SS100 đã gặp tai nạn trên một đoạn đường hẹp gần ngôi biệt thự của ông tại Wareham. Nguyên nhân của vụ va chạm là do một chiếc hố trên đường đã khiến ông không nhìn thấy hai đứa trẻ đang đạp xe đến gần. Chuyển hướng để tránh chúng, Lawrence đã mất lái và văng ra khỏi xe. Vì không đội mũ bảo hiểm nên ông bị chấn thương sọ não nặng và rơi vào trạng thái hôn mê. 6 ngày sau, ông mất tại bệnh viện. Hugh Cairns - một trong các bác sỹ chăm sóc Lawrence sau này đã bắt đầu tiến hành một công trình nghiên cứu về những cái chết đáng tiếc do chấn thương sọ não khi lái môtô. Công trình của bác sỹ Cairns chính là khởi nguồn của qui định đội mũ bảo hiểm áp dụng cho các tay lái quân sự lẫn dân sự. Các bộ luật và tiêu chuẩn Mũ bảo hiểm có thể giảm đáng kể số ca chấn thương và tử vong trong các vụ tai nạn, vì vậy rất nhiều quốc gia đã đưa ra những bộ luật bắt buộc người lái môtô phải đội chúng. Những bộ luật này áp dụng cho rất nhiều loại xe khác nhau, từ mobylette đến các dòng môtô dung tích nhỏ khác. Tại một số nước, điển hình như Mỹ, một số tay lái không đồng ý với bộ luật bắt buộc đội mũ bảo hiểm, do đó không phải bang nào cũng áp dụng nó. Trên toàn thế giới, rất nhiều quốc gia đã đưa ra những tiêu chuẩn riêng dùng để đánh giá hiệu quả của mũ bảo hiểm môtô trong trường hợp xảy ra tai nạn đồng thời xác định tiêu chuẩn tối thiểu có thể chấp nhận được. Một trong số đó phải kể đến: AS 1698 (Australia), NBR 7471 (Brazil), CSA CAN3-D230-M85 (Canada), SNI (Indonesia), JIS T8133 (Nhật Bản), NZ 5430 (New Zealand), IS 4151 (Ấn Độ), ECE 22.05 (Châu Âu), DOT FMVSS 218 (Mỹ). ![]() Tổ chức Snell Memorial đã phát triển những qui định hà khắc hơn và kiểm tra quá trình sản xuất mũ bảo hiểm dùng trong các cuộc đua cũng như nhiều hoạt động khác (ví dụ như đua xe hơi, xe đạp, đua ngựa…). Nhiều tay lái sống tại Bắc Mỹ đã coi giấy chứng nhận Snell như thước đo tiêu chuẩn khi mua mũ bảo hiểm. Trong khi đó, một số khác lại cho rằng các tiêu chuẩn do Snell đưa ra đặt nhiều trọng lực lên đầu người lái hơn tiêu chuẩn của Bộ giao thông Hoa Kỳ (DOT). Tuy nhiên, tiêu chuẩn của DOT không kiểm tra miếng chắn cằm như Snell (và ECE). Người lái đương nhiên sẽ được bảo vệ tốt hơn nếu sử dụng một chiếc mũ bảo hiểm đáp ứng được một trong hai tiêu chuẩn còn hơn là không đội. Tại Anh, Hiệp hội Auto-Cycle (ACU) lại đề ra một tiêu chuẩn dành cho mũ bảo hiểm đua nghiêm ngặt hơn ECE 22.05. Chỉ những chiếc mũ bảo hiểm có dán nhãn vàng ACU mới được phép sử dụng trong các cuộc đua hoặc mùa giải. Nhiều tay lái tại Anh chọn mũ bảo hiểm dán nhãn vàng ACU ngay cả khi chạy trên phố. Các loại mũ bảo hiểm cơ bản Có 5 loại mũ bảo hiểm cơ bản dùng cho người lái môtô còn các loại khác chỉ mang tính chuyên dụng. Tất cả đều được trang bị dây buộc cằm. Chỉ khi nào người lái thắt chặt dây buộc cằm sao cho thật vừa vặn với đầu thì tác dụng của chiếc mũ bảo hiểm mới được phát huy tối đa. Sau đây là các loại mũ bảo hiểm được sắp xếp theo khả năng bảo vệ từ cao xuống thấp do người lái và các nhà sản xuất bình chọn. ![]() Mũ bảo hiểm trùm kín đầu có khả năng bảo vệ người lái hiệu quả nhất. Loại trùm kín đầu (full-face) Mũ bảo hiểm full-face trùm kín phần đầu của người sử dụng với phần sau phủ toàn bộ sọ não và khu vực bảo vệ trước cằm. Loại mũ bảo hiểm này luôn có một khe hở trong vành đai chắn trước mắt và mũi cùng tấm che mặt bằng nhựa (trong suốt hoặc nhuộm màu) xoay lên xuống tùy ý. Bên cạnh đó, nhiều chiếc mũ full-face còn trang bị thêm lỗ thông khí nhằm lưu thông dòng không khí bên trong. Điểm thu hút lớn nhất của loại mũ bảo hiểm full-face là khả năng bảo vệ. Một số người không thích chúng vì nóng, cô lập, thiếu gió và hạn chế khả năng nghe. Mũ bảo hiểm full-face dùng cho những tay đua off-road đôi khi còn tháo bỏ cả tấm che mặt nhưng mở rộng phần vành lưỡi trai và chắn cằm. Theo nhiều nghiên cứu, mũ bảo hiểm full-face bảo vệ người lái tốt nhất vì có đến 35% các vụ tai nạn gây ảnh hưởng đến vùng cằm. Các loại mũ bảo hiểm càng che chắn ít càng kém an toàn hơn cho người sử dụng. ![]() Mũ bảo hiểm motocross được trang bị vành lưỡi trai che nắng và thanh chắn cằm. Loại off-road/motocross Đặc trưng của mũ bảo hiểm off-road/motocross là phần cằm và vành lưỡi trai kéo dài, thanh chắn cằm, tấm che nửa mặt đi kèm cặp kính bảo vệ. Vành lưỡi trai có nhiệm vụ che ánh nắng mặt trời chiếu vào mắt người lái khi nhảy lên/xuống. Ban đầu, mũ bảo hiểm off-road không gắn thêm thanh chắn cằm. Người lái thường sử dụng mũ bảo hiểm gần giống loại hở mặt như hiện nay kèm theo mặt nạ để tránh bụi hay các mảnh vụn đất đá văng vào mũi và miệng. Mũ bảo hiểm off-road hiện đại bao gồm một thanh chắn cằm (hình tam giác thay cho hình tròn) để bảo vệ mặt khỏi chấn thương, bụi bặm và đất đá bay xung quanh. Khi kết hợp đúng cách với kính mắt, người lái sẽ có cảm giác được bảo vệ như loại mũ bảo hiểm full-face dùng trên đường phố. ![]() Mũ bảo hiểm môđun (lật) lúc mở và đóng. Loại môđun hoặc lật (flip-up) Mũ bảo hiểm môđun hoặc lật (flip-up) là sự kết hợp giữa loại full-face và hở mặt dùng trên đường phố thông thường. Ngoài ra, đôi khi chúng còn được gọi với cái tên “bỏ mui” hoặc “lật mặt”. Khi được lắp ghép đầy đủ và đóng lại, trông chúng rất giống loại mũ bảo hiểm full-face nếu có thêm thanh chắn cằm dùng để hấp thụ lực tác động lên mặt. Thanh chắn cằm của mũ flip-up có thể xoay ngược lên trên (hoặc tháo rời) bằng một chiếc cần đặc biệt cho phép người sử dụng tiếp xúc với toàn bộ khuôn mặt. Nhờ đó, người lái vẫn có thể ăn, uống hoặc nói chuyện bình thường mà không cần phải nới dây buộc cằm và tháo mũ bảo hiểm. Mũ bảo hiểm môđun được thiết kế để đội cố định trong suốt thời gian lái vì thanh chắn cằm tháo lắp tùy chỉnh rất hữu dụng khi đứng yên. Tuy nhiên, hình dáng uốn cong của thanh chắn cằm mở và tấm che mặt có thể tăng lực kéo không khí lúc đang lái do gió không chạy xung quanh giống như loại mũ ¾. So với loại hở mặt, thanh chắn cằm của mũ bảo hiểm môđun nhô ra xa hơn hẳn vùng trán, từ đó dễ gây nguy cơ chấn thương cổ cho người lái khi gặp tai nạn. ![]() Mũ bảo hiểm hở mặt. Loại hở mặt hoặc 3/4 Mũ bảo hiểm hở mặt hoặc ¾ vẫn phủ kín phần sau sọ não nhưng thiếu thanh chắn cằm và tấm che mặt như loại full-face. Nhiều chiếc còn trang bị vành lưỡi trai dài tùy chọn được sử dụng để tránh ánh nắng mặt trời. Mũ bảo hiểm hở mặt có khả năng bảo vệ phần não sau tương tự loại full-face nhưng không che được mặt ngay cả trong trường hợp phi va chạm. Những con bọ, bụi bẩn thậm chí là gió đập vào mặt và mắt có thể khiến người lái khó chịu hoặc bị thương. Đó là lý do tại sao khi đội mũ bảo hiểm hở mặt, người lái bao giờ cũng đeo thêm kính râm hoặc kính bảo vệ để che mắt. Ngoài ra, nhiều chiếc mũ ¾ còn gắn thêm tấm che mặt mở rộng phần trên để bảo vệ mắt. ![]() Mũ bảo hiểm nửa đầu được sử dụng trong thập niên 1960. Loại nửa đầu Mũ bảo hiểm nửa đầu hay còn gọi là “shorty” có thiết kế mặt trước tương tự loại hở mặt nhưng rút ngắn phần sau đầu. Loại nửa đầu có độ phủ tối thiểu theo qui định của luật giao thông Mỹ. Tương tự loại hở mặt, mũ bảo hiểm nửa đầu luôn đi kèm các thiết bị bảo vệ mắt. Tuy nhiên, trái với loại hở mặt và full-face, mũ bảo hiểm nửa đầu rất dễ trượt và rơi khỏi đầu người lái nếu gặp tai nạn. Một số khóa học của Tổ chức An toàn Môtô đã cấm sử dụng mũ bảo hiểm nửa đầu trong các bài tập lái do khả năng bảo vệ kém hơn các loại khác. Loại mũ không sử dụng khi lái môtô Ngoài những cái tên nhắc ở trên, còn có một số loại mũ bảo hiểm cách tân được gọi là “beany” hoặc “brain bucket”. Những loại mũ bảo hiểm này không được chứng nhận và thường chỉ sử dụng để đội chống đối với các bộ luật bắt buộc. Chúng thường nhỏ và nhẹ hơn loại mũ theo đúng tiêu chuẩn DOT đồng thời không có khả năng chống chấn thương vùng đầu vì thiếu lớp bọt xốp hấp thụ năng lượng nhằm bảo vệ bộ não bằng cách từ từ ngăn tác động nếu xảy ra va chạm. Mũ bảo hiểm cách tân có thể bảo vệ phần da đầu khỏi bị cháy nắng và trầy xước nhưng không tránh được tác động lên não hoặc hộp sọ. ![]() Mũ bảo hiểm màu trắng có thể tăng độ khả kiến cho các lái xe khác trên đường. Độ khả kiến Mặc dù mũ bảo hiểm màu đen khá phổ biến trên thị trường nhưng chúng lại là loại có độ khả kiến kém nhất. Một người đội mũ bảo hiểm màu trắng trơn bao giờ cũng giảm được 24% tỉ lệ va chạm so với người chọn loại màu đen vì nó cung cấp độ khả kiến tốt hơn kể cả ngày hay đêm. Tuy nhiên, tỷ lệ tiêu thụ giữa mũ bảo hiểm màu đen và trắng lại chênh lệch với con số 20:1. Cấu trúc Mũ bảo hiểm hiện đại được làm bằng nhựa. Loại mũ bảo hiểm đắt tiền đôi khi còn được gia cố với kevlar hoặc sợi cacbon. Chúng thường có lớp lõi bằng bọt xốp và sợi vừa tạo cảm giác êm ái vừa bảo vệ an toàn cho vùng đầu. Được thiết kế để vỡ khi va chạm (từ đó tỏa rộng phần năng lượng dồn lên não người sử dụng) nên mũ bảo hiểm môtô bao giờ cũng mất khả năng bảo vệ sau vụ tai nạn đầu tiên. Cần lưu ý rằng tác động có thể do nhiều nguyên nhân gây ra như bị rơi chứ không hoàn toàn vì va chạm. Tốt hơn hết, bạn nên thay mũ bảo hiểm ngay sau mỗi lần va chạm hoặc 3 năm một lần nếu may mắn không dính vào bất kỳ vụ tai nạn nào. Chức năng Mũ bảo hiểm môtô thông thường có hai thành phần bảo vệ chính: lớp vỏ bên ngoài cứng, mỏng được chế tạo từ nhựa PC, sợi thủy tinh hoặc Kevlar và phần lõi dày, mềm bên trong làm bằng bọt xốp polixtiren hoặc polipropilen. Mục đích của lớp vỏ cứng bên ngoài là: · Cản những vật sắc nhọn xuyên qua mũ bảo hiểm và đâm vào sọ não. · Tạo điểm bám cho phần lõi bên trong sao cho không nó bị tan rã vì cọ xát ăn mòn với lớp bảo vệ. Điều này rất quan trọng vì loại bọt xốp được sử dụng có sức chống chịu rất kém trước những vật xuyên qua hoặc mài mòn. Chức năng của lớp bọt xốp là nén xuống trong suốt vụ va chạm, từ đó tăng khoảng cách cũng như khoảng thời gian đầu người lái ngừng chuyển động và giảm tốc độ hãm. ![]() Một chiếc mũ bảo hiểm bị hư hỏng sau vụ tai nạn chứng tỏ khả năng bảo vệ người lái của thanh chắn cằm và tấm che mặt. Để hiểu hơn về chức năng của mũ bảo hiểm, trước hết cần phải nắm được cơ chế gây chấn thương đầu. Quan niệm về mục đích của mũ bảo hiểm là bảo vệ đầu người lái khỏi bị hở ra ngoài thực chất lại hoàn toàn sai lầm. Những vết rạn trên sọ não thường không gây nguy hiểm đến tính mạng trừ khi bị nén. Những tác động bên trên não và rạn xương sẽ lành lại sau một khoảng thời gian tương đối ngắn. Chấn thương não mới là vấn đề thực sự nghiêm trọng. Chúng là nguyên nhân phổ biến gây tử vong, tàn tật vĩnh viễn hoặc thay đổi nhân cách. Không giống như xương, khả năng phục hồi sau chấn thương của mô thần kinh rất hạn chế. Do đó, mục đích cơ bản nhất của mũ bảo hiểm là tránh chấn thương não trong khi chấn thương sọ và mặt chỉ là mối quan tâm thứ hai. Loại chấn thương đầu phổ biến nhất trong các vụ tai nạn môtô là chấn thương sọ não kín. Nói một cách cụ thể, sọ không bị vỡ và dễ nhận ra như chấn thương sọ não hở (ví dụ, vết thương do đạn bắn). Chấn thương sọ não kín gây ra tình trạng gia tốc “thô bạo” khiến não di chuyển xung quanh bên trong hộp sọ. Trong suốt quá trình va chạm lên phần trán, não tròng trành về phía trước bên trong sọ, ép mô gần vùng chấn thương và kéo giãn mô về phía đối diện. Sau đó, não bật nẩy theo hướng ngược lại, kéo giãn mô gần vùng chấn thương và ép mô tại nửa còn lại của hộp sọ. Các mạch máu nối với não bên trong hộp sọ cũng bị vỡ trong suốt quá trình này, gây ra hiện tượng chảy máu rất nguy hiểm. Một nguy cơ khác đóng vai trò chính trong các vụ chấn thương liên quan đến việc đầu người lái chuyển động nhanh và mạnh là tính mẫn cảm của não trước các lực biến dạng. Trong những trường hợp này, lực quay tròn là nguyên nhân chính. Liên quan mật thiết đến quá trình gia tốc và giảm tốc nhanh của đầu, lực quay tròn hạ xuống mức nhỏ nhất khi điểm xoay của não gần gốc thân não và cứ thế tăng dần lên cùng với khoảng cách tịnh tiến từ điểm này. Lực biến dạng khiến các tầng não va đập vào nhau dẫn đến hiện tượng sợi trục bị kéo giãn hoặc xé rách và bất tỉnh. Những mạch máu cũng bị phá vỡ gây chảy máu não. Đó là lý do tại sao lớp lõi của mũ bảo hiểm môtô phải thật mềm và dày để giảm tốc độ chuyển động của não. Thật không may, độ dày của lớp lõi vẫn bị hạn chế vì mũ bảo hiểm sẽ trở thành phi thực tế nếu dày hơn 2,5 – 5,1 cm. Điều này đồng nghĩa với giới hạn về độ mềm của lõi. Nếu quá mềm, lớp lõi sẽ bị bẹp vì đầu nén xuống. Bên ngoài phần lõi là lớp vỏ cứng bằng nhựa. Bên ngoài nữa là những mặt phẳng cứng mũ bảo hiểm đập vào như vỉa hè bằng bê tông chẳng hạn. Khi đầu không thể di chuyển thêm và đột ngột dừng lại, não sẽ bị tổn thương vì quá trình gia tốc quá nhanh. ![]() Bộ sưu tập mũ bảo hiểm của tay đua Moto GP Valentino Rossi. Do vậy, phần lõi mũ bảo hiểm lý tưởng phải đủ cứng để giảm tốc độ tác động lên phần đầu. Độ cứng yêu cầu phụ thuộc vào tốc độ tác động lên não vốn không được xác định tại thời điểm sản xuất mũ bảo hiểm. Vì thế, nhà sản xuất phải chọn tốc độ tác động tương tự và tối ưu hóa mũ bảo hiểm sao cho phù hợp. Nếu tốc độ tác động thực chậm hơn con số dùng để thiết kế, đầu người lái sẽ giảm tốc bớt “thô bạo” hơn cần thiết, từ đó tạo ra khoảng trống bên trong và bên ngoài mũ bảo hiểm. Nếu tốc độ tác động thực lớn hơn, đầu sẽ đè lên phần lõi và giảm tốc nhưng không dừng hoàn toàn quá trình. Khi khoảng nén của lớp lõi đạt đến cực điểm, đầu sẽ bất thình lình dừng lại. Tuy nhiên, không có mũ bảo hiểm thì đầu còn dừng ở tốc độ lớn hơn, gây ra chấn thương nghiêm trọng hơn. Do đó, mũ bảo hiểm có lớp bọt xốp cứng dùng để ngừng chuyển động của đầu trước khi hết khoảng nén mũ bảo hiểm bao giờ cũng hoạt động hiệu quả hơn. Trên thực tế, các nhà sản xuất thường chọn tốc độ tác động để thiết kế mũ bảo hiểm dựa trên tốc độ sử dụng trong các cuộc thử nghiệm tiêu chuẩn (14-25 km/h).ư Theo Zing |
CHUYÊN MỤC ĐƯỢC TÀI TRỢ BỞI |